Duyệt qua hàng ngàn bằng cấp về chăm sóc sức khỏe từ khắp nơi trên thế giới.Các ngành nghề chăm sóc sức khỏe có nhu cầu cao và yêu cầu bằng cấp chuyên ngành. HEALTHCARESTUDIES kết nối sinh viên với các trường y khoa và các bằng cấp về chăm sóc sức khỏe trên khắp thế giới. Là một trong những trang web lấy sinh viên làm trung tâm đáng tin cậy của Tập đoàn Giáo dục Keystone, HEALTHCARESTUDIES giúp các bác sĩ, y tá, bác sĩ thú y, nhà trị liệu, nhà nghiên cứu và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe đồng minh tìm được bằng cấp và khóa học phù hợp với nguyện vọng nghề nghiệp của họ. Và bởi vì chăm sóc sức khỏe là nhu cầu toàn cầu, HEALTHCARESTUDIES có sẵn hơn 40 ngôn ngữ, giúp sinh viên chăm sóc sức khỏe phù hợp dễ dàng tìm được bằng cấp y tế phù hợp.

Ngành điều dưỡng thời trung cổ

Ngành điều dưỡng thời trung cổ chính là nền tảng cho sự phát triển của ngành điều dưỡng hiện đại. Khi các nước châu Âu ban hành một số điều luật mới đã tạo điều kiện cho bệnh viện được mọc lên hàng loạt. Các tu viện bắt đầu xây dựng bệnh viện riêng của họ chỉ để cung cấp các dịch vụ cho con chiên. Bên cạnh đó, mỗi nhà thờ đều có bệnh viện. Bởi những chính sách này mà tại Đức từ năm 1200 đến 1600 đã xây dựng hơn 150 bệnh viện.

Ảnh minh họa Điều dưỡng thơi trung cổ

Thế kỉ XVI, Camillus De Lellis lập nên nhóm người chuyên chăm sóc người nghèo đau ốm và tù nhân. Năm 1633, Sisters Chariting thành lập tổ chức chăm sóc người đau ốm với tên gọi Saint Vincent De Paul, họ đưa các “điều dưỡng viên” của mình đi khắp nơi trên thế giới.

Saint Vincent De Paul (Nguồn: https://stvincentdepaul.ca/history-of-our-saint.php)

Đầu thế kỉ XVII, bởi quá trình cải cách Tín lành, các tổ chức tôn giáo bị giải tán khiến quy mô ngành điều dưỡng lúc này bị suy giảm nghiêm trọng, xã hội có thái độ xấu đối với ngành điều dưỡng.

Bà Florence Nightingale và sự hình thành ngành điều dưỡng hiện đại

Florence Nightingale (1820 – 1910) sinh ra và lớn lên trong gia đình Anh giàu có, quyền quý, gắn bó mật thiết với chính phủ Anh quốc lúc bấy giờ. Vì thế, bà bị cấm không được phép làm các nghề nghèo hèn như điều dưỡng viên lúc bấy giờ.

Với tư chất thông minh cùng một trái tim đau đớn khi chứng kiến cảnh đói nghèo, bệnh tật, bà đã làm trái với lời cha mẹ và bắt đầu nghiên cứu, tìm các sách viết về chăm sóc người bệnh. Bà đi đến các bệnh viện tại London và vùng lân cận để giúp đỡ người nghèo, người tàn tật không nơi nương tựa.

Florence Nightingale (Nguồn: https://vnexpress.net/co-gai-nha-giau-nightingale-ba-to-nghe-dieu-duong-3922554.html)

Những năm 1854 – 1856, chiến tranh “Cremean War” nổ ra giữa Nga và một bên là Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ. Florence Nightingale cùng 38 y tá khác được cử đến Thổ Nghĩ Kỳ nơi quân đội Anh đóng quân. Lúc này, tại quân khu, hơn 4000 binh lính Anh bị thương và chết do dịch tả, thương hàn. Số người chết vì bệnh tật nhiều hơn cả trên chiến trường. Bà nhanh chóng nhận ra số người nhiễm bệnh chủ yếu ăn uống thiếu dinh dưỡng, thiếu vệ sinh và hệ thống ống cống và thoáng khí bị nghẽn làm không khí ô nhiễm nặng. Florence Nightingale mạnh dạn đề nghị sự giúp đỡ từ Chính phủ Anh. Tháng 3/1855, Chính phủ Anh gửi nhân viên tẩy trùng, làm thông thoáng hệ thống ống cống, nhờ vậy mà tỷ lệ tử vong giảm đáng kể chỉ trong thời gian ngắn.

Florence Nightingale chăm sóc bệnh nhân tại chiến trường (Nguồn: https://www.independent.co.uk/news/health/war-russia-florence-nightingale-nursing-b2074522.html)

Tờ “Times” đã gọi Florence Nightingale là “Người phụ nữ với cây đèn”. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ, khi các bác sĩ y tá khác đã về nghỉ ngơi, Florence Nightingale vẫn một mình đi kiểm tra tại các trại bệnh với một nét mặt lo lắng cho những chiến sĩ đang bị giày vò đau đớn.

Khi trở lại Anh quốc, Florence Nightingale dành cả phần đời còn lại của mình đóng góp cho sự nghiệp chăm sóc bệnh nhân. Bà cùng mọi người thành lập “quỹ Nightingale” và “Trường đào tạo điều dưỡng Nightingale” mà sau này, “Trường đào tạo điều dưỡng Nightingale” là nơi đặt nền móng cho ngành điều dưỡng ở nước Anh cũng như toàn thế giới. Cuốn sách “Cẩm nang điều dưỡng” của bà trở thành di sản, tài liệu căn bản đào tạo cho các trường điều dưỡng khác.

Để tưởng nhớ và ghi nhận những đóng góp của Florence Nightingale cho ngành điều dưỡng thế giới, Hội đồng điều dưỡng thế giới đã lấy ngày sinh của bà, tức ngày 12/5 làm Ngày quốc tế Điều dưỡng.

Chủ tịch Hội điều dưỡng Việt Nam hiện nay

Hiện tại, chủ tịch Hội điều dưỡng Việt Nam là thạc sĩ Phạm Đức Mục nhiệm kì 2017 – 2020. Với mục tiêu trở thành tổ chức chuyên nghiệp trong xây dựng, đào tạo đội ngũ điều dưỡng viên có năng lực và đại diện cho tiếng nói của điều dưỡng Việt Nam, những năm qua, Hội không ngừng cố gắng và hoàn thiện, cung cấp dịch vụ chăm sóc tốt nhất cho bệnh nhân.

Trên đây là vài nét sơ bộ về sự  hình thành và phát triển của ngành điều dưỡng Việt Nam và trên thế giới. Lịch sử ngành điều dưỡng Việt Nam là kết tinh kinh nghiệm dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử, không ngừng đóng góp vào sự nghiệp chăm sóc sức khỏe đất nước.

Nguồn: bài viết có tham khảo một số tư liệu của một số trang internet

Trường Đại học Y khoa Tokyo Việt Nam

🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸🌸

Bạn đang chưa biết lựa chọn ngành nào ? Hãy liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ - tư vấn. Hotline: 0869 809 088 Email: [email protected] Hẹn gặp lại các bạn tại THUV.

Trả lời phỏng vấn của PV mới đây, ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, Cục trưởng Cục Quản lý Lao động ngoài nước (Dolab), cho biết trong năm 2016, song song với chương trình cung ứng điều dưỡng viên, hộ lý sang Nhật Bản thực tập và làm việc, doanh nghiệp (DN) xuất khẩu lao động sẽ được cung ứng loại hình lao động này theo chương trình thực tập sinh.

“Chúng tôi đã có sự chuẩn bị, sẵn sàng hợp tác với các nghiệp đoàn Nhật Bản để tuyển dụng lao động điều dưỡng khi cơ quan thẩm quyền 2 nước chính thức cho phép” - bà Trần Thị Lâm Uyên, Phó Giám đốc Công ty Nhật Hy Khang, nói.

Nhờ quan hệ rộng với các nghiệp đoàn Nhật Bản, trong năm 2015, Công ty Nhật Hy Khang đã đưa được 750 lao động sang nước này. Bà Uyên cho biết vừa qua, 5 nghiệp đoàn của Nhật Bản đã tiếp xúc với công ty để bàn về việc hợp tác cung ứng lao động điều dưỡng.

“Các đối tác cam kết cung cấp trang thiết bị để đào tạo. Tới đây, chúng tôi sẽ làm việc với các trường đại học, cao đẳng để liên kết đào tạo. Nhu cầu lao động điều dưỡng của Nhật Bản rất cao, mỗi năm chúng tôi có thể cung ứng trên 500 người” - bà Uyên nhấn mạnh.

Theo ông Vũ Thanh, Phó Giám đốc Công ty CP Thương mại - Đầu tư và Phát triển nguồn nhân lực (Tracimexco HRI), vừa qua, khá nhiều nghiệp đoàn Nhật Bản sang đặt vấn đề hợp tác đào tạo, cung cứng lao động điều dưỡng. “Khi có hướng dẫn cụ thể từ Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội và Dolab là chúng tôi bắt tay thực hiện ngay. Đây là cơ hội tốt cho lao động ngành y tế sang Nhật học tập và làm việc, nâng cao trình độ chuyên môn” - ông Thanh bày tỏ.

Trưởng Ban Quản lý Lao động Việt Nam tại Nhật Bản, ông Nguyễn Gia Liêm, xác nhận chính phủ Nhật Bản đã có đề án trình quốc hội thông qua việc điều chỉnh Luật Quản lý xuất nhập cảnh và công nhận tị nạn xã hội. Theo đó, cùng với việc điều chỉnh chế độ thực tập sinh, chính phủ Nhật Bản cho phép mở rộng ngành nghề tuyển dụng lao động nước ngoài, trong đó có lao động điều dưỡng. Nếu được quốc hội Nhật Bản thông qua, chính sách mới dự kiến được triển khai vào tháng 5 tới.

Theo ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, trước mắt, khi phía Nhật Bản chưa thông qua việc điều chỉnh chương trình thực tập sinh, Dolab yêu cầu DN không được tuyển chọn, thu phí của người lao động (NLĐ). Chỉ khi chương trình thực tập sinh ngành điều dưỡng được thông qua, DN mới được phép tuyển chọn lao động. Sở dĩ có yêu cầu này là vì thời gian qua, một số DN “cầm đèn chạy trước ô tô”, tổ chức tuyển chọn, đào tạo lao động.

Cho rằng đây là cơ hội để gia tăng lao động Việt Nam sang Nhật Bản nhưng ông Lê Long Sơn, Giám đốc Công ty Esuhai, khuyến cáo các DN cần cân nhắc trong việc đàm phán, lựa chọn đối tác, tránh ồ ạt tuyển dụng và nhất là tuyển dụng khi chưa được phép nhằm tránh rủi ro cho NLĐ. Một cán bộ Chi nhánh Công ty CP Xuất khẩu lao động và Dịch vụ - Thương mại Biển Đông (Estrala) tại TP HCM cảnh báo việc một số DN “đi tắt đón đầu”, đã tuyển sinh đào tạo và thu tiền của NLĐ có thể gặp rủi ro, thậm chí gây thiệt hại cho NLĐ nếu chương trình không được triển khai.

Cũng theo cán bộ này, vướng mắc lớn chính là đối tượng tuyển dụng, chế độ, quyền lợi của điều dưỡng viên điều chỉnh theo chương trình thực tập sinh (diện lao động phổ thông), trong khi điều kiện tuyển dụng có thể áp dụng như chương trình thực tập và làm việc. “Lao động điều dưỡng Việt Nam sang Nhật chủ yếu làm công việc chăm sóc người già, đòi hỏi tiếng Nhật rất cao. Chính vì vậy, tiêu chuẩn đầu vào rất khắt khe, yêu cầu trình độ trung cấp hoặc cao đẳng về điều dưỡng; trình độ tiếng Nhật tối thiểu N3 (tương ứng thời lượng học 1 năm). Đòi hỏi cao như vậy nhưng thu nhập, quyền lợi không tương xứng sẽ khiến việc tuyển dụng khó khăn” - vị cán bộ này nhấn mạnh.

Chương trình thực tập sinh hiện hành của Nhật Bản cho phép chủ sử dụng nước này tuyển lao động ở 71 ngành, nghề và 130 loại hình công việc theo thời hạn hợp đồng 3 năm.

Ngoài lao động điều dưỡng, đề án điều chỉnh chế độ thực tập sinh của Nhật Bản đề xuất mở rộng thêm một số ngành nghề, công việc được phép tuyển lao động nước ngoài. Bên cạnh đó là đề xuất tăng thời hạn làm việc cho một số ngành nghề từ 3 năm lên 5 năm.

Theo Duy Quốc/Báo Người lao động